Quặng talc Thu Ngạc, Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, đã được phân tích XRF, XRD, EPMA, ICP-MS, FTI và trạng thái rắn cộng hưởng từ hạt nhân của silic và hydro (29Si NMR và 1H NMR) nhằm đánh giá chất lượng sử dụng cho công nghiệp
Giới thiệu kết quả nghiên cứu và áp dụng công nghệ tuyển khoáng để đầu tư xây dựng dây chuyền tái chế và sử dụng xỉ thải của lò quay sản xuất oxyt kẽm thuộc Công ty CP KLM Thái Nguyên có công suất xử lý 40.000 tấn/năm xỉ thải.
Báo cáo giới thiệu về nguyên nhân, nguồn tác động môi trường và đối tượng bị tác động khi đóng cửa mỏ và dự án khoáng sản ngừng hoạt động; mối liên quan giữa đóng cửa mỏ và công tác hoàn phục môi trường; mục tiêu và nguyên tắc phục hồi môi trường. Cũng giới thiệu những tiến bộ và hạn chế trong việc cải tạo và phục hồi môi trường khi đóng cửa mỏ khoáng sản ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thành phần cấp hạt <2µm sét bentonit Di Linh bao gồm chủ yếu là montmorillonit (Ca0.06Mg0.03Na0.09K0.03 Al1.39Fe0.25Mg0.26(OH)2 Si3.96Al0.04O10) và khoáng sét lớp xen 2 thành phần illit-smectit có độ xen lớp đều đặn (R1) (Ca0.04Mg0.07Na0.18K0.16 Al1.76 Fe0.08Mg0.16(OH)2 Si3.62Al0.38O10).
THS. HOÀNG MINH HÙNG - THS. NGUYỄN HỮU NHÂN - VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ - VINACOMIN
ai nạn lao động (TNLĐ) thường xảy ra trong các ngành có nguy cơ cao, trong nhiều nám trờ lại đây khai thác và chế biến đá là ngành có độ rủi ro lớn dẫn đến TNLĐ, bệnh nghề nghiệp (BNN). Môi trường lao động, điều kiện lao động bị ổ nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất của doanh nghiệp cũng như an toàn cho người lao động. Do vậy, cần nghiên cứu tổng kết và đưa ra giải pháp, tiêu chí tự đánh giá phát hiện nguy cơ, khắc phục sự cố làm giảm TNLĐ và BNN trong khai thác chế biến đá tại các doanh nghiệp (DN) vừa và nhỏ.
Quặng sa khoáng titan-zircon (trong tầng cát đen và cát xám) sau nhiều năm khai thác hàm lượng khoáng vật nặng càng ngày càng giảm và trở nên cạn kiệt. Vì vậy, quặng sa khoáng titan–zircon trong tầng cát đỏ đã, đang được quan tâm và nghiên cứu. Sau đây là kết quả nghiên cứu tuyển quặng sa khoáng titan–zircon trong tầng cát đỏ thuộc tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận mà Viện KH&CN Mỏ-Luyện kim thực hiện trong một số năm qua. Đặc biệt kết quả tuyển quặng sa khoáng titan–zircon mỏ Mũi Đá 2 thuộc tỉnh Bình Thuận thu được quặng tinh ilmenit có hàm lượng TiO2 >49% với thực thu toàn bộ >72%, quặng tinh zircon có hàm lượng ZrO2 >62% với thực thu toàn bộ >78%.
Graphit thuộc nhóm khoáng vật không cực, có tính kỵ nước rất cao nhưng lại rất dễ dàng hấp thu dầu. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu biến tính graphit làm tăng độ xốp của vật liệu, do đó làm tăng khả năng hấp thu dầu. Đây là một hướng nghiên cứu tiềm năng góp phần nâng cao giá trị của sản phẩm graphit, tăng tính hiệu quả và chủ động trong công tác ứng phó các sự cố tràn dầu trên sông, biển. Tại nước ta, hướng nghiên cứu này chưa được quan tâm nghiên cứu. Báo cáo trình bày một số kết quả nghiên cứu bước đầu về chế tạo vật liệu graphit tróc nở tại Viện Khoa học Vật liệu từ nguồn graphit tự nhiên của Việt Nam ứng dụng trong xử lý ô nhiễm dầu trong môi trường nước.
Hơn 50 năm qua tập thể cán bộ kỹ thuật Công ty Mỏ-INCODEMIC, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đã thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu tuyển quặng apatit loại III với chế độ công nghệ và thuốc tuyển khác nhau. Các kết quả nghiên cứu đã được áp dụng để thiết kế, xây dựng và đưa vào sản xuất các nhà máy tuyển Cam Đường, Bắc Nhạc Sơn.
: Báo cáo giới thiệu kết quả xử lý quặng urani khu Pà Lừa - Pà Rồng, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam bằng phương pháp hòa tách đống. Sử dụng phương pháp này không đòi hỏi phải đầu tư trang thiết bị lớn và thích hợp cho việc xử lý quặng urani nghèo. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng với quặng urani nghèo vùng Pà Lừa - Pà Rồng có hàm lượng urani trong khoảng 0,0367 đến 0,0584% U, điều kiện hòa tách đống thích hợp là: kích thước hạt quặng <1cm, lượng axit H2SO4 tiêu hao từ 35–45 kg/tấn quặng, thời gian hòa tách phụ thuộc vào quy mô đống và trong khoảng 20–65 ngày, lượng chất oxy hóa 4kg MnO2/tấn quặng. Với điều kiện đó, hiệu suất thu nhận urani đạt hơn 76% và hàm lượng urani còn lại trong bã hòa tách <0,01%. Hiệu suất thu hồi urani tương đương với kết quả của thế giới khi xử lý quặng urani cùng loại.
Báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu công nghệ tuyển quặng talc Tân Sơn, Phú Thọ. Kết quả thu được quặng tinh talc có thu hoạch lớn hơn 50%, hàm lượng SiO2 ≥61%; MgO>30; Fe2O3<1%; TiO2<0,08% ; MKN 4-5%; CaO<0,80% và độ trắng đạt 90,14% đáp ứng yêu cầu chất lượng làm nguyên liệu cho sản xuất gốm sứ, sơn, polymer.
Báo cáo trình bày kết quả thí nghiệm tuyển quặng thiếc gốc khu Suối Giang tỉnh Ninh Thuận. Hàm lượng quặng nguyên khai 0,182% Sn. Kết quả thu được sau khi nghiên cứu có hàm lượng quặng tinh 55% Sn với thực thu khoảng 73%.
Bài báo giới thiệu khái quát về thực trạng ngành công nghiệp khai khoáng và công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Bình Định với 02 nội dung: Thực trạng về công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản trên địa bàn tỉnh; công tác ban hành và thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường. Bài báo cũng nêu những vấn đề tồn tại và cần có giải pháp khắc phục.
Thái Nguyên có 250 điểm mỏ và ngành khai khoáng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn với 169 giấy phép khai thác và chế biến khoáng sản còn hiệu lực. Từ năm 2006 đến nay tỉnh Thái Nguyên đã triển khai các dự án “sản xuất sạch hơn” trong ngành sản xuất xi măng và luyện kim màu. Trong quá trình thực hiện đã đạt được một số kết quả, nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế. Báo cáo cũng đề xuất phương hướng và giải pháp để phát triển sản xuất sạch hơn trong thời gian tới
TS. Chu Công Dần Hội Tuyển khoáng Việt Nam