Đi tắt đón đầu
Chỉ trong vòng một thế hệ mà Nam Triều Tiên đã nhảy vọt từ một nước chậm tiến thành một quốc gia tân tiến. Nghiên cứu những mô hình phát triển kinh tế thần kỳ này, nhà nước cũng đã chọn một số ngành công nghệ làm mũi nhọn, thành lập nhiều tập đoàn lớn để tìm cách “đi tắt đón đầu” và nhanh chóng “đưa thuyền ra biển lớn”. Thế nhưng chiến thuật này đã không mang lại kết quả mong muốn. Bài thảo luận Fulbright / Harvard viết: “Từ khi các tổng công ty được chuyển ào ạt thành tập đoàn kinh tế, những yếu kém cơ bản của khu vực doanh nghiệp bộc lộ ngày càng rõ, đặc biệt dưới tác động của bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước và khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Kết quả là sự sụp đổ của một số tập đoàn kinh tế và sự kém hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được phơi bày, những điều này đã góp phần tạo ra những trục trặc hiện nay của hệ thống ngân hàng. Những trục trặc này, đến lượt mình, tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh của hai động cơ tăng trưởng nội địa khác là khu vực tư nhân và nông nghiệp”.
Tạo công ăn việc làm
Nói chung nền kinh tế Việt Nam cần phải tạo ra ít nhất một triệu việc làm mới mỗi năm chỉ để hấp thụ lao động mới. Về điểm này thì một bài thảo luận khác của nhóm nghiên cứu Fulbright / Harvard trước đó đã đưa ra nhận xét như sau: “Nói một cách đơn giản, khu vực nhà nước không tạo ra được nhiều việc làm, nhưng lại chiếm một nửa giá trị đầu tư doanh nghiệp. Trong khi đó khu vực tư nhân, hiện đang tạo ra được việc làm, lại chủ yếu bao gồm những doanh nghiệp nhỏ với cơ cấu vốn yếu kém, gặp khó khăn trong việc tăng trưởng để trở thành các doanh nghiệp vừa và lớn, vì khó tiếp cận được đất đai và vốn vay ngân hàng”.
Thiếu liên kết với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài
Kêu gọi các doanh nghiệp FDI vào đầu tư ở Việt Nam cũng không khác mang những ngọn lửa công nghệ mới về nước và mong làm mồi châm cho những doanh nghiệp trong nước để cùng nhau thắp sáng bộ mặt kinh tế Việt Nam. Tiếc thay mang những đốm lửa ấy về nhưng lại không thấy “bắt mồi”.
Bài thảo luận trên đây cũng đã viết như sau: “Các trở ngại đối với sự tăng trưởng của khu vực tư nhân trong nước đã làm hạn chế sự phát triển của những ngành phụ trợ vốn hưởng lợi nhiều nhất từ những liên kết này. Hơn thế nữa, nếu không có mối quan hệ vững chắc và lâu dài với các nhà cung ứng nội địa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ có ít động cơ ở lại Việt Nam một khi chi phí lao động và những chi phí khác tăng lên…”.
Doanh nghiệp là nguồn đóng thuế quan trọng
Cũng đừng quên rằng các doanh nghiệp trong nước là một nguồn đóng thuế rất lớn cho nhà nước. Doanh nghiệp đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập trên lương chủ và nhân viên, cùng nhiều chi phí khác… Lương tiền trả cho quân đội, cảnh sát, cán bộ công nhân viên nhà nước cùng các chi phí từ cấp làng xã đến quốc gia… tất cả đều lấy từ nguồn thuế là chính. Không thu đủ thuế để trang trải mọi chi phí quốc gia thì ngân sách thiếu hụt và nhà nước phải vay nợ trong và ngoài nước, hoặc phải… in tiền để rồi đưa đến lạm phát.
Ai bảo làm doanh nhân là dễ?
Dấn thân vào thương trường là một quyết định táo bạo vì đây là một con đường đầy chông gai và rủi ro. Ngay ở Mỹ, trong một môi trường thuận lợi và với những điều kiện hoạt động tốt đẹp nhất mà tỷ lệ doanh nghiệp tử vong cũng rất cao. Tính ra cứ 100 doanh nghiệp được thành lập thì trong vòng 5 năm đầu đã có đến 75% phải đóng cửa và đến năm thứ 10 thì có 90% doanh nghiệp dẹp tiệm. Tỷ lệ doanh nghiệp tử vong trong nước chắc hẳn là còn cao hơn nhiều!
Chính sách cần thay đổi
Nhìn lại vấn đề từ các góc cạnh trên thì vai trò chính của các cơ quan quản lý nhà nước là để hỗ trợ doanh nghiệp, tương tự như bộ phận hậu cần hỗ trợ các chiến sĩ tiền tuyến. Bài thảo luận Fulbright / Harvard (2013) đã có nhắc đến điểm này như sau: “Sau khi thực thi Luật Doanh Nghiệp năm 1999, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên trong thời gian gần đây tình trạng nhũng nhiễu doanh nghiệp có vẻ đang trở lại. Trong bối cảnh môi trường kinh doanh không được cải thiện đáng kể, một phần lớn thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp được tiêu tốn để đáp ứng các thủ tục quản lý còn thiếu tường minh và không nhất quán từ phía các cơ quan quản lý nhà nước”.
Là “xương sống” của nền kinh tế, khối doanh nghiệp dân doanh phải nên được xem là “con gà đẻ trứng vàng”, cần được chăm sóc và trân quý thay vì bắt họ phải hứng chịu nhiều khó khăn hành chánh, thủ tục nhiêu khê, luật lệ chồng chéo.
Ai bảo cứ xài hàng ngoại là xịn?
Nếu cứ đổ lỗi cho chính sách và chờ đợi được nhà nước hỗ trợ thì quả cũng là một điều khiếm khuyết. Dù cho được ưu đãi, dù chính sách thay đổi nhưng không hẳn cứ nhờ đó mà các doanh nghiệp sẽ làm ăn dễ dàng hơn. Doanh nghiệp chỉ là khối sản xuất mà thành công hay không cũng còn tùy thuộc ở mảng tiêu thụ. Đồng tiền là dòng máu luân lưu trong một cơ thể kinh tế, là gió để nâng các con diều doanh nghiệp trong nước bay cao. Mua một món hàng sản xuất trong nước là giữ cho đồng tiền lưu chuyển trong nước, giữ cho máu còn nằm trong cơ thể, giúp cho nhà máy chúng ta tiếp tục hoạt động, nhân công chúng ta có công ăn việc làm, gia đình của họ có tiền để sống, con cái của họ được ăn học... Biết thế nhưng dân ta vẫn cứ mua hàng ngoại, vô tư “hiến máu” ra nước ngoài, để rồi bó tay nhìn nhau mà hỏi rằng đồng tiền mình chạy đi đâu, vì sao nhà máy mình đóng cửa hàng loạt, vì sao bất động sản mình bán không chạy, vì sao kinh tế mình xuống dốc?
Các vec tơ cần hướng về một phía
Hơn bao giờ hết đây là thời điểm mà khối doanh nghiệp tư nhân đang chờ đợi một niềm tin, động lực mới từ sự quyết tâm của Chính phủ và các Bộ, ngành để họ yên tâm khởi nghiệp, đầu tư kinh doanh đóng góp sức lực, của cải cho nền kinh tế. Điều quan trọng hơn cả là nhà nước nên có cái nhìn mới đối với khối doanh nghiệp tư nhân và dần dần rút về đóng vai trò điều hành và hỗ trợ thay vì trực tiếp nhúng tay vào việc kinh doanh. Về phía người dân là những người tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp, thì cũng cần phải đóng góp bằng cách mua hàng nội. Có như thế thì kinh tế mới phát triển để mang lại lợi ích cho tất cả mọi người và giúp cho dân giàu nước mạnh.